Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2010

11- TIẾN TRÌNH CSVN GIAO ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CHO TRUNG CỘNG XÂM LĂNG


Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva,17.02.2010

Từ tháng 9.2009, khi thấy một đàng chủ trương của Trung quốc là dùng tiền bạc để xâm lăng không những tại Việt Nam, mà còn các nước nghèo khác tại Phi Châu, Á Châu, Trung Á, một đàng Nhà Nước Việt Nam kiệt quệ về Ngân Sách nên đói ăn vụng túng làm liều đưa lãnh thổ Việt Nam dần dần dâng hiến cho xâm lăng Trung quốc, chúng tôi đã viết một bài tương quan Chủ Nợ—Con Nợ để cho thấy CSVN mất chủ quyền, không dám hé họng khi ngư dân VN bị Tầu hà hiếp ở Biển Đông chính trong vùng biển thuộc Việt Nam. Tệ hại hơn nữa, khi nhận nợ của Trung quốc đến ngập họng rồi và khi không trả nợ được, thì Trung quốc đòi bắt cả vợ và con gái, thì CSVN cũng phải giao cho Chệt dầy vò.

Thấy tình trạng mỗi ngày mỗi lệ thuộc Trung Cộng về tiền bạc như vậy, chúng tôi lại viết một bài thứ hai gần đây cho thấy rằng trong tương lai Tầu sẽ viện cớ Kinh tế trước Thế Giới để ngang nhiên mang quân đội vào Việt Nam để bảo vệ quyền lợi Kinh tế của họ và những người Tầu đã lập làng mạc và những Khu Thương Mại và Công Nghệ trên lãnh thổ Việt Nam.

Những phân tích và những lo ngại của chúng tôi trên đây không phải là không có bằng chứng. Thực vậy, tại Quốc nội, hai Tướng CS ĐỒNG SỸ NGUYÊN và NGUYỄN TRỌNG VĨNH đã viết rõ về nguy hại mất nước bởi lẽ CSVN đã cho Trung Quốc thuê dài hạn những khu đất đầu nguồn để Tầu mang người sang canh tác và sinh sống. Tại Hải ngọai, ông BÙI TÍN, một người cũng đã từ đảng CSVN, đã phân tích thêm tình trạng nguy hiểm mất nước này.

Nếu trước đây, vì quyền hành mà Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng viết Công Hàm nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông, Hỏang Sa và Trường Sa, thì ngày nay, cả đảng CSVN chỉ vì đồng tiền đút túi làm của riêng đã mang tài sản VN đi bán, mang Lãnh thổ VN giao cho Tầu, mời gọi tư bản nước ngòai vào VN để khai thác nhân lực, xuất cảng đàn bà con gái đi phục vụ tình dục. Tất cả chì vi tiền bạc muốn vơ vét đầy túi riêng.

Chúng tôi cho đăng lại những bài dưới đây để cho thấy CSVN đang thực hiện một tiến trình giao nước cho Tầu chỉ vì tiền bạc :

=> THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC
(Nguyễn Phúc Liên)

=> BIỆN MINH CỦA TQ KHI ĐEM QUÂN TRÀN VÀO CHIẾM VN
(Nguyễn Phúc Liên)

=> CSVN CHO TẦU THUÊ ĐẤT ĐAI
(Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh)

=> HAI TƯỚNG CS CHỈ RA NGUY HIỂM
(Bùi Tín)



11 A) THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 24.09.2009

Cách đây chừng trên 20 năm, có phong trào các nước đã Kỹ nghệ hóa MUA NỢ lại các nước nghèo chưa mở mang ở Phi Châu và Nam Mỹ. Khi Chính quyền những nước nghèo có những món nợ chồng chất, họ tìm cách bán những món nợ ấy. Phải chăng việc các nước giầu mua nợ (nhận nợ dùm) là một hành động bác ái, thương người ?

Về tiền bạc, rất hiếm người hoặc không có ai dễ dàng trở thành mạnh thường quân mà không có hậu ý. Cái hậu ý ở đây là bắt con nợ phải nhường những nguồn lợi Kinh tế lớn gấp mấy lần giá trị của món nọ mà họ mua dùm.

Tôi xin kể ra đây một tỉ dụ cụ thể để dễ hiểu. Cách đây 20 năm, tôi làm Cố vấn Tài chánh cho Group BONGO tại Congo. Sang Brazaville, tôi chứng kiến một Hợp đồng Mua Nợ giữa Nhật và Congo. Chính phủ Congo không có tiền để trả nợ. Một Công ty lớn của Nhật mua lại món nợ ấy với điều kiện là Chính phủ Congo nhường cho Công ty Nhật cả một vùng rừng phía Bắc nước Congo để Nhật khai thác gỗ qúy. Đối với Chính phủ Congo, thì đây là việc họ làm với Nhật mà Dân chúng không biết gì cả. Có thể Chính phủ còn nói với Dân rằng đây là việc khai thác tài nguyên rừng mà người Nhật làm ích lợi cho xứ sở.

Việt Nam con nợ của Tầu

Tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe trong dân gian có những chuyện con nợ nghèo quá, phải gả chính con gái nhỏ để làm vợ cho chủ nợ.

CSVN, trong những năm gần đây, thiếu hụt Ngân sách trầm trọng. Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới làm cho đầu tư nước ngòai thụt xuống 82%(Tài liệu:Bài viết của phóng viên Asia Sentinel Consulting). Xuất cảng hàng hóa giảm 60%. Ngay cả giữa Trung quốc và Việt Nam, cán cân thương mại cũng thua lỗ: Năm 2008, Việt Nam xuất cảng sang Trung quốc trị giá USD.4 tỉ, trong khi đó nhập cảng từ Trung quốc tới USD.15 tỉ.

Việt Nam muốn đi vay nợ từ những nước khác, nhưng trong hòan cảnh Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế, các nước khác cũng gặp khó khăn, làm sao cho vay được. Trong hòan cảnh như vậy, chỉ còn đi làm đầy tớ cho Tầu, bán cả vợ con cho Tầu để nhận làm con nợ.

Tầu là chủ nợ cho Việt Nam

Chủ nợ thường có những lo lắng về trường hợp con nợ ăn qụyt. Ơû đọan trên, chúng tôi nói rằng nhiều nước, nhất là Tây phương, rất ngại ngùng cho Việt Nam vay nợ, một phần là vì cuộc Khủng hỏang hiện nay, nhưng một phần quan trọng nữa là sợ CSVN qụyt nợ. Làm trong lãnh vực Tài chánh, chúng tôi đã nghe một số Ngân hàng gia nói rằng họ có thể cho Phi châu vay, nhưng nói đến cho Việt Nam vay, thì họ rất lo ngại. Cái lý do là nếu Việt Nam ăn qụyt, thì họ khó kiện cáo về luật lệ đối với Việt Nam.

Ngược lại, Trung quốc sẵn sàng cho Việt Nam vay nợ vì họ có những thuận lợi chắc chắn sau đây:

=> Trung quốc cho Việt Nam vay nợ không phải bằng tiền mặt, mà bàng hàng hóa và nhân công. Trung quốc đang cần xuất cảng hàng hóa, nhân công và thiết bị dư thừa.

=> Trung quốc bắt Việt Nam phải cho những nhượng địa để khái thác tài nguyên làm bảo chứng cho những món nợ mà họ cho vay. Trung quốc nắm phần chắc Việt Nam trả nợ trước bàng tài nguyên khi cho vay bằng hàng hóa mà họ muốn xuất cảng.

=> Trong trường hợp Việt Nam lật lọng muốn ăn qụyt nợ, thì Trung quốc có quân đội mạnh đã bao vây Biển và sát trên đất liền để tràn sang bắt phải trả nợ. Trung quốc không cần phải kiện cáo luật lệ gì với Việt Nam, mà dùng sức mạnh quân sự giải quyết.

Tương quan Chủ nợ—Con nợ

Không phải chỉ có tương quan hai CƠ CHẾ mà CSVN cần Tầu che chở, mà cái tương quan tệ hại nhất là giữa Con nợ mất hết độc lập và Chủ nợ hống hách chủ trương xâm lăng Việt Nam. Tương quan này cắt nghĩa: (i) Tại sao Việt Nam dành cho Tầu khai thác tài nguyên; (ii)Tại sao mất Biển Đông, Hòang Sa/Trường Sa mà không dám than; (iii)Tại sao dành những Dự án cho Tầu; (iv)Tại sao Ngư dân Việt Nam bị Tầu bắt mà không dám nói; (v)Tại sao biết khai thác Bôxit Tây nguyên có hại mà vẫn cúi đầu để cho Tâu làm; (vi)Tại nhân công Tầu tràn vào Việt Nam trong khi đó dân nghèo VN thất nghiệp; (vii)Tại sao cấm giới trẻ VN không được tỏ lòng yêu nước; (viii) Tại sao bắt những Blogers nói đụng đến Tầu; (ix) Tại sao cấm những Trí thức Việt Nam như IDS phải câm miệng ?


11 B) BIỆN MINH CỦA TRUNG CỘNG KHI ĐEM QUÂN TRÀN VÀO CHIẾM VIỆT NAM
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 04.02.2010

Trong VietTUDAN số 432 tuần trước, chúng tôi đã viết hai bài có sự liên hệ với nhau. Với bài phân tích về những cuộc nổi dậy trước đây ở Dông Aâu, chúng tôi thấy rằng việc thành công hoặc thất bại của những cuộc nổi dậy tùy thuộc chính yếu vào thái độ đàn áp đến từ Moscou.

Bài học Đông Aâu ấy cho chúng ta đề phòng lệnh đàn áp đến từ Bắc Kinh hay chính Trung quốc cho quân đội và xe tăng vào Việt Nam đàn áp Dân Việt nổi dậy. Nếu Bắc Kinh chỉ ra lệnh cho quân đội hay công an Việt Nam dùng bạo lực đàn áp, thì chúng ta không ngại sợ cho lắm bởi lẽ trong quân đội hay công an có những người không đang tâm giết chính đồng bào ruột thịt của mình và có thể cùng nổi dậy với dân để chống lệnh Trung quốc. Cuộc nổi dậy năm 1980 tại Ba-Lan và cuộc xuống đường năm 1989 tại Bá Linh cho thấy điều đó. Erich Knonecker, đồ đệ trung thành của Staline, cũng đã không dám xử dụng quân đội Đông Đức để giết chính người Đức.

Nhưng điều chúng ta ngại sợ hơn cả là chính quân đội và xe tăng Trung quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam để giết người Việt Nam. Trong sự liên đới Đông Nam Á và Thế giới hiện nay, việc Trung quốc tự nhiên cho quân và xe tăng đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ Việt không phải là điều dễ làm vì quốc tế kết án. Trung quốc phải tìm ra những cái cớ để biện minh trước những nước trong vùng và trước Thế giới về việc họ xua quân và xe tăng vào Việt Nam.

Việt Nam chắc chắn không mang quân đội và vũ khí sang tấn công lãnh thổ Trung quốc để Trung quốc lấy cớ tràn quân vào Việt Nam. Những cái cớ mà Trung quốc sẽ lấy ra, đó là để đòi NỢ Việt Nam, để bảo vệ sinh mạng NGƯỜI Trung quốc đang sống ở Việt Nam và để bảo tòan TÀI SẢN của Trung quốc đặt để ở lãnh thổ Việt Nam.

1) Đòi NỢ Việt Nam

Trung quốc cho Hoa kỳ vay nợ. Họ trở thành chủ nợ, nhưng đối với con nợ Hoa kỳ, chính chủ nợ Trung quốc lại ngại sợ bởi vì Hoa kỳ có một lực lượng quân đội mạnh có thể vận chuyển nhanh chóng khắp Thế giới. Trung quốc chưa bao giờ viễn chinh và có thể bị tiêu diệt dễ dàng nếu muốn tấn công Hoa kỳ để đòi nợ.

Trường hợp con nợ Việt Nam thì khác. Việt Nam ở gần kề và bị bao vây mọi phía bởi Trung quốc: phía Đông, Tầu đã giữ Biển Đông; phía Tây, Tầu tràn qua Lào và Cao Mên dễ dàng; phía Bắc, Tầu đứng cạnh biên giới sẵn sàng tràn xuống như họ đã làm trong Lịch sử. Trong tình trạng Kinh tế hiện nay, Trung quốc dư vốn cho Việt Nam vay và khi cho Việt Nam vay thì họ không sợ mất vốn. Nhà Nước Việt Nam thiếu hụt ngân qũy và nhờ Trung quốc trợ giúp Tài chánh. Ngân Hàng dành riêng cho người Tầu đã họat động từ 4 năm nay tại Việt Nam. Phần lớn những Dự án ở Việt Nam hiện nay là do vốn Tầu cho vay và dân chúng Việt Nam phải trả góp. Trả nợ không xong, thì Tầu tràn vào đòi nợ.

2) Bảo vệ sinh mạng NGƯỜI TẦU sinh sống tại Việt Nam

Trung quốc cho vay nợ để thực hiện Dự án. Mỗi Dự án là mỗi xuất cảng công nhân Trung quốc sang Việt Nam. Những công nhân này không phải chỉ lấy vợ chồng tại Việt Nam mà ở lại, mà chính họ tìm mọi cách ở lại Việt Việt Nam để lập nghiệp. Những công nhân này sẽ mang gia đình họ từ Trung quốc sang sinh sống tại Việt Nam. Họ sẽ thiết lập những làng, những khu thương mại, những khu kỹ nghệ riêng cho họ. Khi người Tầu lập những China Towns khắp Thế giới, thì việc tiến lên những khu riêng của họ tại Việt Nam, với thái độ sợ sệt của CSVN lúc này, là việc rất dễ dàng và mau chóng. Khi đã sinh sống thành làng, thành khu thương mại, kỹ nghệ rồi, thì khi có cuộc nổi dậy tại Việt Nam, Trung quốc dễ dàng nại ra lý do bảo vệ sinh mạng người của họ để cho quân đội vào bảo vệ.

3) Bảo Toàn TÀI SẢN Trung quốc đặt ở Việt Nam

Trong tuần trước, chúng tôi đã viết bài về chương trình tư nhân hóa hay Trung quốc hóa những Công ty quốc doanh Việt Nam. Người Trung quốc trực tiếp hay qua trung gian những người Tầu sống tại Việt Nam mua đa số cổ phần trong những Công ty này để nắm trọn Sản xuất cũng như Thương mại tại Việt Nam. Việc Trung quốc hóa này nhắm chính yếu vào Thương mại. Thực vậy, khi mà những cơ sở nhập cảng nằm trong tay Trung quốc, thì việc nhập cảng hàng từ Trung quốc để phân phối cho 85 triệu người Việt trở thành tự động. Khi có nổi dậy, Trung quốc có thể lấy lý do bảo tòan tài sản của họ mà cho quân tràn vào.

Tóm lại, Trung quốc không tự dưng tràn quân vào Việt Nam để bị Thế giới kết án. Nhưng họ sẽ nêu ra những lý do bảo vệ quyền lợi Kinh tế của họ mà cho quân vào Việt Nam đàn áp dân chúng nổi dậy.


11 C) CSVN CHO TẦU CỘNG THUÊ ĐẤT ĐAI CỦA VIỆT NAM

“CSVN cho người ngoại quốc thuê rừng là tự sát và làm hại cho đất nước.”
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Về việc các tỉnh cho người nước ngoài thuê đất đầu nguồn trồng rừng nguyên liệu dài hạn

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên vốn là người có 7 năm phụ trách Chương trình 327 mà mục tiêu là phủ xanh đồi núi trọc, bảo vệ rừng, và môi trường sinh thái; còn Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1989). Hai nhà cách mạng lão thành gửi cho Bauxite Việt Nam bài viết sau đây, nêu rõ hiểm họa của việc chúng ta cho Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuê trong thời hạn 50 năm hơn 264 nghìn ha rừng đầu nguồn; 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới.

Theo chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã cử đoàn cán bộ liên ngành trực tiếp kiểm tra hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh, đồng thời tổng hợp báo cáo 8 tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương. Kết quả cho thấy 10 tỉnh [các tác giả chỉ liệt kê 9 tỉnh, tức sót một tỉnh – người biên tập] đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích 305,3534 nghìn ha, trong đó Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 nghìn ha; 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới.

Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao?

Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước.

Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng.

Chúng tôi đồng ý với 5 đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Xin nói rõ 2 đề nghị đầu:

1. Đối với một số tỉnh đã lỡ ký với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt các tỉnh thuộc vùng xung yếu biên giới, cần tìm cách thuyết phục họ khoán cho đồng bào tại chỗ trồng. Những tỉnh chưa ký thì đình chỉ ngay; thay vào đó, huy động các doanh nghiệp trong nước đầu tư, kết hợp sử dụng một phần vốn Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng để thực hiện. Thực tế đất rừng đã giao cho đồng bào sử dụng gần hết. Nếu ký cho nước ngoài thuê sẽ đụng đến môi trường, đụng đến quyền lợi đồng bào, nhất là đồng bào miền núi, đang thiếu đất, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề rất phức tạp.

2. Các tỉnh chỉ đạo các huyện, các lâm trường xây dựng bộ phận chuyên trách. Trong vòng 1 năm, chính thức giao đất, khoán rừng cho từng hộ; cấp quyền sử dụng đất vào mục đích trồng rừng phòng hộ kết hợp rừng kinh tế.

Từ đây, chúng tôi đề nghị mở rộng chương trình xóa đói giảm nghèo ở miền núi thành chương trình làm giàu cho đồng bào miền núi, kết hợp tái định cư của các công trình. Điều kiện làm giàu ở miền núi tốt hơn ở đồng bằng. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đất rừng đầu hộ của đồng bào miền núi còn trên 4 ha. Tuy không nhiều, nhưng vẫn gấp 3 lần ở đồng bằng; ở đây, thực hiện được đa canh, đa con. Đặc biệt kết hợp tốt trồng rừng phòng hộ với rừng kinh tế. Lùi về trước đã có mô hình tỉnh Tuyên Quang nhân dân ta tự trồng rừng, đảm bảo nguyên liệu cho nhà máy Bãi Bằng. Vậy bây giờ có điều kiện hơn, tại sao lại giành cho nước ngoài?

Đất đai là thứ nhạy cảm, muôn đời, vì hiện tại và tương lai của nhân dân, hãy tính toán chặt chẽ từng tấc đất cho các mục đích cần sử dụng. Trước mắt đề nghị Chính phủ cho đình chỉ ngay việc cho nước ngoài thuê đất đầu nguồn dài hạn với diện tích lớn, dù có phải bồi thường cũng được, để tránh thảm họa cho dân cho nước.


11 D) HAI TƯỚNG CS CHỈ RA HIỂM HỌA

Bùi Tín

Paris, đêm 30 Tết Canh Dần (13-2-2010)

Ngày cuối năm âm lịch, mở mạng Bauxite-info, bên những bông hoa mai vàng và lời chúc Tết đẹp là một bài viết rất "nóng" của 2 tướng ở trong nước.

Đó là trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh.

Bài viết được mạng Bauxite.info giới thiệu một cách trang trọng.

Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vốn là phó tổng tham mưu trưởng, từ 1967 đến 1975 là Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn dọc đường "mòn" Hồ Chí Minh, là một binh đoàn tương đương 5 sư đoàn, ngang với 2 quân đoàn, có quân số 42 ngàn quân, gồm vận tải cơ giới, công binh, phòng không, thông tin, ra-đa, bộ binh, cao xạ, kho tàng, ống dẫn dầu, giao liên, thanh niên xung phong ... rải dài hơn 1 ngàn kilômét. Sau chiến tranh ông là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giao thông vận tải, là uỷ viên bộ chính trị trung ương đảng trước khi về hưu năm 1988.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vốn là uỷ viên trung ương đảng, bí thư tỉnh uỷ Thanh hoá, là đại sứ VN tại Trung quốc suốt 15 năm, từ 1974 đến 1989 (trong cuộc chiến Trung-Việt) về hưu năm 1990.

Đặc điểm của 2 tướng này là uy tín lớn trong Quân đội nhân dân, có ảnh hưởng sâu rộng trong cựu chiến binh, tướng Đồng Sỹ Nguyên có 200 ngàn binh sỹ từng dưới quyền, vẫn còn quan hệ với nhau trong "hội " cựu binh Trường Sơn; tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nổi tiếng về tính bộc trực ngay thẳng, hiện là phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt nam, có hàng triệu hội viên rải khắp nước.

Cần nói thêm 2 tướng này năm 2009 vừa qua đã lên tiếng mạnh mẽ phản đối, ngăn chặn chủ trương khai thác bôxít ở Tây Nguyên của bộ chính trị hiện tại, cũng cùng lên tiếng qua mạng Bauxite.info do nhà văn hoá Nguyễn Huệ Chi chủ trương, nay lại cùng chung bài viết đề ngày 22-1-2010, nhưng chỉ xuất hiện sáng ngày 12-2-2010 trên mạng Bauxite đang bị đánh phá dữ dội. Sự chậm trễ 20 ngày cho thấy bài báo đã bị các báo lớn nhất từ chối, tẩy chay do tệ độc quyền báo chí chà đạp Hiến pháp của bộ chính trị đương quyền.

Lại cũng cần thưa thêm với độc giả trong và ngoài nước rõ, 2 tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh, từ năm 2004, cũng có lập trường chung tố cáo mạnh mẽ, công khai vụ án siêu nghiêm trọng Tổng Cục II và T4, vụ án đã được trung ương đảng khoá IX cử ra Ban Kiểm tra Liên ngành điều tra và kết luận, Ban này đã hoàn thành báo cáo, nhưng bộ chính trị do ông Mạnh cầm đầu đã ngang nhiên "khoanh lại" để ỉm đi một cách vô nguyên tắc, nhằm bảo vệ uy tín, che dấu trọng tội của 2 ông Lê Đức Anh và Đỗ Mười. 2 ông này đã được gần như toàn xã hội và đa số đảng viên nhận diện như là "bạn tốt" nhất, "đồng chí tốt" nhất của thế lực bành trướng Bắc Kinh.

Trong bài viết mới này, 2 ông tướng đã báo động khẩn cấp việc cấp uỷ đảng cùng chính quyền ở 10 tỉnh đã ký kết với 10 doanh nghiệp Trung quốc đóng tại Trung quốc, Hồng kông và Đài Loan, những thoả thuận cho phép họ thuê đất và rừng để kinh doanh trong một thời gian rất dài.

Danh sách các tỉnh đó là : Lạng sơn, Quảng ninh, Cao bằng, Nghệ an, Hà tĩnh, Quảng nam, Bình định, Kon tum và Bình dương.

Diện tích cho thuê tổng cộng là 264.000 hec-ta rừng phần lớn ở đầu nguồn, các tỉnh biên giới (theo báo cáo kín của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) .

Các thoả thuận đều có giá trị trong thời gian 50 năm, và sẽ kéo dài hơn sau đó.

Hai viên tướng chỉ rõ hiểm họa cực lớn cho đất nước, cho cuộc sống và an ninh của nước ta, cho nền quốc phòng của quốc gia. Tướng Đồng Sỹ Nguyên sinh năm 1923, nay 87 tuổi. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1916, 94 tuổi.

Hai viên tướng báo động : họ sẽ tha hồ chặt phá cây rừng từ đầu nguồn, hồ sẽ cạn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ chết, mội trường sẽ bị huỷ hoại.

Hai viên tướng kết luận : đây là một cuộc tự sát của quê hương đất nước.

2 tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh đề nghị với đảng, nhà nước và nhân dân : - với những thỏa thuận đã lỡ (!) ký rồi, hãy thuyết phục các công ty nước ngoài khoán cho đồng bào ta ở tại chỗ khai thác đất rừng, đề phòng họ sẽ đưa lao động dân nước họ vào lập thành những làng Trung hoa, làng Hồng kông, làng Đại hàn trên đất nước ta .

- với những thoả thuận đang thương lượng thì đình ngay lại !

Cuối cùng 2 ông yêu cầu đảng và nhà nước thực hiện ngay và rộng khắp việc giao khoán đất rừng cho từng hộ đồng bào ta là dân địa phương tại chỗ.

Tiết lộ và ý kiến của 2 tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh là hết sức khẩn cấp và nghiêm trọng.

Vì ông Đồng Sỹ Nguyên khi còn là Phó thủ tướng đã chịu trách nhiệm thực hiện Chương trình 327 của chính phủ là Chương trình Quốc gia Phủ xanh đồi trọc và Bảo vệ rừng.

Bài viết của 2 ông tướng này còn cực nóng vì phơi bày một loạt việc làm chui, khuất tất, ám muội, mang tính hại nước hại dân, có thể xếp vào tội phản quốc, do chính quyền và đảng uỷ các tỉnh, huyện thực hiện thông đồng với các công ty của thế lực bành trướng với các khoản đút lót, hối lộ béo bở, được một số quan chức trong chính phủ, một số bộ trưởng lớn nhất, có thể trong cả bộ chính trị đỡ đầu, yểm trợ để kiếm phần siêu lợi khổng lồ. Họ sẽ thâm thù 2 ông tướng.

Anh Nguyễn Huệ Chi linh cảm rõ điều ấy. Anh nghĩ họ có thể bóp cho mạng của anh nghẹt thở hẳn do tin tày trời mang bí mật quốc gia cực kỳ nhạy cảm này. Anh thề sẽ hiến cho sự thật, cho nhân dân đến gịot máu cuối cùng của anh, để mạng bauxite ngang nhiên sống khỏe.

Chính vì vậy mà ngày cuối năm 30 Tết tôi cặm cụi gõ bài này và gửi lời chúc chân thành nhất đến nhóm Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng cùng hơn 4.000 anh chị trí thức đã ký kiến nghị Bôxit, cũng như đông đảo bạn yêu nước, yêu tự do trong số gần 20 triệu độc giả quen thuộc của mạng này.

Bùi Tín, Paris, đêm 30 Tết Canh Dần (13-2-2010)


**************

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét